[Học văn lớp 9]
Đọc “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, người đọc tinh ý sẽ thấy ngay sự có mặt của một không gian Hà Nội ngay bên cạnh không gian chiến trường. Hai không gian ấy song song với nhau, vừa tương phản vừa tương hỗ, nhiều khi lẩn quất vào nhau, làm nổi bật tâm trạng của các nhân vật.
Người ta bảo chúng tôi là con gái Hà Nội, liệu có xa nhà được ba ngày? Nhưng chúng tôi ở đây, trên cao điểm này đã ba năm…
– Có đoàn xe ở Hà Nội vào!
– Dân Hà Nội đấy!
– Này, các cô gái Hà Nội ơi! Nhớ mẹ quá hầy!
– Chắc đêm nay các anh ở Hà Nội sẽ vào!
Hà Nội luôn hiện lên như thế, trong lời nói của các nữ thanh niên xung phong, của chiến sĩ chốt cao điểm, của chiến sĩ lái xe… Hà Nội cũng hiện lên mỗi khi họ khủng hoảng nhất, gặp nhiều khó khăn nhất, cần phải vượt qua đau thương nhất. Hà Nội trong lời hát bất chợt của chị Thao, “đây Thăng Long, đây Đông Đô… Hà Nội…”. Chị cất tiếng hát về thủ đô yêu dấu để kìm nén “những tình cảm đang quay cuồng trong chị” khi phải chứng kiến Nho bị thương. Bởi dù “nhạc sai bét, còn giọng thì chua”, nó vẫn xoa dịu nỗi lòng, nó vẫn tránh cho người ta khỏi khóc. Bởi khóc trong khi cần cái cứng cỏi của nhau, với chị, “được xem như là bằng chứng của một sự tự nhục mạ”.
Nhưng không gian Hà Nội, phải ở Phương Định, mới thân thuộc và máu thịt hơn cả. Với Phương Định, Hà Nội không chỉ lẩn quất trong tiềm thức như chị Thao, không dè dặt, thì thầm như Nho trong nỗi mong ngóng “các anh ở Hà Nội sẽ vào”, mà là một thế giới thường trực, luôn hiện hữu, như hơi thở, như khí trời. Chỉ cần một phút buông thả cảm xúc, một thoáng gặp sự việc dễ liên tưởng, là lại ngân lên sợi tơ lòng, Hà Nội lại ùa về choán ngợp.
Chỉ một cơn mưa đá thoáng qua cao điểm mà đã làm sống lại cả một ấu thơ Hà Nội trong lòng Phương Định: Mưa xong thì tạnh thôi. Mà tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố. Phải, có thể những cái đó… Hoặc là cây, hoặc là cái vòm tròn của nhà hát, hoặc bà bán kem đẩy cái xe chở đầy thùng kem, trẻ con háo hức bâu xung quanh. Con đường nhựa ban đêm, sau cơn mưa mùa hạ rộng ra, dài ra, lấp loáng ánh đèn, trông như một con sông nước đen. Những ngọn điện trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong câu chuyện cổ tích nói về những xứ sở thần tiên. Hoa trong công viên. Những quả bóng sút vô tội vạ của bọn trẻ con trong một góc phố. Tiếng rao của bà bán xôi sáng có cái mủng đội trên đầu… Với riêng bản thân mình, Phương Định thủ thỉ thú nhận: Chao ôi, có thể là tất cả những cái đó. Những cái đó ở thiệt xa… Rồi bỗng chốc, sau một cơn mưa đá, chúng xoáy mạnh như sóng trong tâm trí tôi.
Nhưng Hà Nội còn là của tất cả các cô, của cả đất nước. Bởi Hà Nội là thủ đô, là trái tim nước Việt, là vì sao sáng trong bầu trời đêm tăm tối để cả dân tộc đang bền bỉ tranh đấu hướng về. Hà Nội, vì thế, vừa là một Hà Nội cụ thể lại cũng vừa là một Hà Nội tượng trưng. Liệu có người chiến sĩ giải phóng quân nào không khắc sâu trong tim mình biểu tượng thiêng liêng của hồn nước? Cho nên, cất lên tiếng nói chung cho cả tập thể của mình, Phương Định rõng rạc, tự hào: Nghiêm trang, chúng tôi nhìn về hướng Bắc. Ở đó có Hà Nội. Chúng tôi xa đã lâu. Chúng tôi nhớ thành phố xanh. Chúng tôi quý sự yên tĩnh như kỉ niệm. Ở đây là nơi mà tuổi trẻ chúng tôi đang lớn lên, nhưng không lúc nào chúng tôi không nhớ tới Hà Nội.
Không ai rời xa Hà Nội mà lại không đem lòng nhung nhớ. Thế hệ các trí thức tiểu tư sản trong những năm kháng Pháp phải rời Hà Nội đã để lại một dòng văn nhung nhớ. Đó là nỗi nhớ “đêm ra đi đất trời ngút lửa” của Hà Nội cảm tử trong thơ Chính Hữu, là “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” trong thơ Quang Dũng, là nỗi nhớ “những mùa thu đã xa” của Hà Nội heo may lay thềm lá nắng trong thơ Nguyễn Đình Thi,… Nỗi nhớ ấy đã hun đúc họ, thúc giục họ lao động và chiến đấu. Và cũng như họ, trong những năm chống Mỹ, một loạt các trí thức trẻ tuổi của mái trường xã hội chủ nghĩa đã xung phong vào chiến trường, bồi đắp phù sa cho dòng văn nhung nhớ. Nỗi nhớ ấy không làm họ bi lụy, nỗi nhớ ấy tiếp thêm sức mạnh và niềm tin. Đó là ý chí: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Đó là tình cảm: Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây. Đó là cuộc sống: Ở chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ. Bởi với họ, thế hệ của những Lê Mã Lương, cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù… Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Lê Minh Khuê,… chính là những nhà văn xuất thân từ tầng lớp học sinh sinh viên tình nguyện đó. Họ trực tiếp là người lính chiến đấu trên chiến trường và là những nhà văn trẻ làm nên một chất giọng hùng tráng và lãng mạn rất riêng của văn học Việt Nam thời chống Mỹ.
Trở lại với truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi, ngoài không gian Hà Nội làm thành kết cấu độc đáo của tác phẩm, không gian chiến trường với những trận đánh, đường hành quân, với chiến sĩ, thanh niên xung phong,… cũng thể hiện nhiều nét độc đáo trong bút pháp truyện ngắn Lê Minh Khuê. Có thể nói, từ việc lựa chọn ngôi kể, xây dựng và phân tích miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật đến việc sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu, Lê Minh Khuê đã thể hiện rõ tài năng và sự tinh tế của mình. Một phần không khí của câu chuyện có thể xuất phát từ chính vốn sống (Lê Minh Khuê từng là thanh niên xung phong trên cung đường Trường Sơn) nhưng phần lớn thành công truyện ngắn có được có lẽ là nhờ tâm hồn dịu dàng mà bén nhạy của tác giả. Truyện ngắn của Lê Minh Khuê trong những năm chống Mỹ thường là những câu chuyện bình dị ngỡ tưởng như chẳng có gì để kể. Vậy mà các câu chuyện ấy lại gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng, man mác, tươi trẻ mà vẫn rất đỗi đằm thắm, sâu lắng.
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG Nguồn : Báo VNQĐ

[Wikipedia]